top of page

NGUỒN LỰC CỘNG ĐỒNG: BÀI TOÁN "ĐẦU TIÊN" - "TIỀN ĐÂU" CHO CÁC TỔ CHỨC/ DỰ ÁN/ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI

Trong chuyến đi Hàn Quốc vừa rồi, có rất nhiều bài học về quản lí, tổ chức và vận hành thành công các sáng kiến xã hội và phong trào phát triển thay thế. Chúng mình nhận ra mẫu số chung của các tổ chức thành công thường nằm ở khả năng huy động sự tham gia của cộng đồng, sự đồng thuận (vì một mục tiêu/lí tưởng chung và đặc biệt là cách dự án cộng đồng, các tổ chức xã hội giải quyết bài toán độc lập tài chính, huy động nguồn lực xã hội. Nhiều phong trào, tổ chức lớn đến nỗi có khả năng tác động đến chính sách và cải cách luật để phục vụ sự phát triển chung dựa trên tình hình thực tế. Nói cách khác, so với cách tiếp cận thông thường trong phát triển, tức là thay đổi xã hội (Social Changes) thường từ trên xuống (top-down) - chú trọng vào vận động chính sách và hỗ trợ từ chính phủ cũng như phụ thuộc nguồn quỹ từ các tổ chức tài trợ (funding agency) hay từ những công ty/tập đoàn lớn hoặc ngân sách của chính quyền địa phương thì các tổ chức, hợp tác xã (HTX), phong trào ở Hàn Quốc chúng mình tiếp xúc (nhiều tổ chức tồn tại trên 30-40 năm và có sức ảnh hưởng lớn) đều đi từ cấp cơ sở (grassroots - từ người dân thường)


Trong một xã hội đa nguyên về chính trị với thị trường tự do, kinh tế tư bản như Hàn Quốc thì việc chỉ phụ thuộc vào việc vận động chính sách có nhiều rủi ro. Vì mỗi đời lãnh đạo, các đảng phái chính trị khác nhau nắm quyền sẽ có những ưu tiên khác nhau về mặt phát triển, chính sách. Đương nhiên không phải tất cả những vận động chính sách, đặc biệt là những thứ đã được luật hoá có thể dễ dàng thay đổi. Tuy nhiên những ủng hộ riêng về mặt thực thi và tài chính có thể dễ dàng thay đổi hơn bao giờ hết. Ví dụ như thị trưởng Seoul trong nhiệm kì trước rất ủng hộ các sáng tạo xã hội, những "thí nghiệm" phục vụ cho "tương lai", ông đã chủ trì thành lập Seoul Innovation Park, một platform hỗ trợ sáng kiến/sáng tạo giải quyết các vấn đề xã hội trên khu đất hơn 100,000 m2 ở phía Bắc Seoul, thu hút hơn 235 nhóm và khoảng 1200 người về để thực hiện các dự án/thử nghiệm/sáng tạo xã hội khác nhau (1). Tuy nhiên từ sự lãnh đạo của Thị trưởng mới cũng như chính phủ mới của Hàn Quốc thì những chính sách và hỗ trợ cho các sáng tạo xã hội cũng bị cắt giảm và không được khuyến khích. Theo đó thì Seoul Innovation Park sẽ bị đóng cửa vào tháng 10 năm nay, khoảng thời gian 1-2 năm qua Seoul Innovation Park cũng chứng kiến sự điều hiu, hoang vu vì sự dời đi, đóng cửa của rất nhiều dự án/doanh nghiệp xã hội. Thêm vào đó, trong một cuộc trao đổi gần đây với một người bạn của VCIL liên quan đến top -down thì sức sống của chính sách trên thực tế cộng đồng là một câu hỏi lớn. Liệu cộng đồng địa phương có hấp thụ được chính sách đó không dựa trên trình độ và điều kiện thực tế? Đương nhiên là chúng mình rất ủng hộ việc vận động chính sách, được sự ủng hộ của khối "công" hay các tổ chức/doanh nghiệp lớn vì tiềm năng tạo tác động dài hạn cũng như sức ảnh hưởng lớn nhưng đó là cả quá trình mà không phải ai cũng làm được và kết quả thực tế không phải lúc nào cũng như ý. Cho nên ở cấp độ người dân, cấp cơ sở thì việc tạo ra những "thí nghiệm" cùng nhau, tự giải quyết vấn đề, nhu cầu của cộng đồng mình, giữ vững được tổ chức sáng tạo đó lâu dài về mặt tài chính và vận hành là vấn đề thực tiễn mà chúng ta cần quan tâm. Mà có lẽ, nếu thành công, thì những dự án này có thể tạo tác động trực tiếp, nhanh chóng và lâu dài với rất ít nguồn lực.


Câu hỏi đặt ra là các tổ chức, dự án, phong trào/HTX thành công tại Hàn Quốc đã làm thế nào để có thử huy động sự tham gia của cộng đồng trong thời gian dài (với cam kết cao)? Trong phạm vi bài viết nhỏ này chúng mình sẽ chia sẻ ngắn về khía cạnh tài chính của các tổ chức cũng như bài học thực tế cho bản thân VCIL Community và các tổ chức quê nhà.


BÀI HỌC TỪ HÀN QUỐC

 Đầu tiên đó là mô hình thư viện Neutinamu (tại Gyeonggi-do - cách Seoul hơn 30km) - một thư viện với tư cách pháp nhân là Private / Public Library. Đây không phải là thư viên công, cũng chẳng phải thư viện tư nhân nốt, mà là thư viện chung được đóng góp, xây dựng và vận hành bởi cộng đồng người dân trong khu vực nên không thuộc sở hữu riêng của cá nhân mà cũng chẳng phải sở hữu nhà nước. Thư viện trong lịch sử hơn 20 năm hình thành đã từng nhận donate từ hơn 1450 người, và hiện tại có khoảng 500 người đóng góp tiền hàng tháng cho hoạt động của thư viện, budget hàng năm khoảng hơn 800 ngàn đô. Vì không nhận tiền từ chính phủ cũng như các tổ chức phi chính phủ, thay vào đó nhận tiền từ cộng đồng địa phương và vận hành bởi người dân địa phương nên thư viện rất tự do trong cách vận hành, cũng như thực tế trong các hoạt động, chọn lọc các đầu sách dựa trên nhu cầu thực tế của cộng đồng địa phương. Cộng đồng địa phương nhận được lợi ích thiết thực và cá nhân hoá nhu cầu tại thư viện, không gian thư viện cũng trở thành không gian công cộng, nhiều hoạt động giáo dục và trao đổi văn hoá còn được diễn ra ở đây.

Thư viện dần trở thành một phần không thể thiếu của cộng đồng địa phương, phục vụ nhu cầu thiết yếu và thực tiễn của người dân trong khu vực nên lẽ dĩ nhiên, cư dân quanh vùng rất sẵn sàng góp tiền hàng tháng để duy trì thư viện. Trong toà nhà được xây từ năm 2007 với 3 triệu đô la (cũng hoàn toàn từ đóng góp của người dân), trao đổi với chúng mình về ngân sách nhận được hàng năm từ đóng góp, giám đốc thư viện - cô Young-Sook không ngần ngại chia sẻ niềm vui khi số tiền đóng góp có xu hướng tăng dần qua các năm. Trong những ngày đầu thành lập, đương nhiên cũng rất khó để thuyết phục mọi người về tầm quan trọng cần phải có một thư viện địa phương - đồng nghĩa với việc có rất ít sự ủng hộ. Tuy nhiên, qua thời gian, với những việc làm tạo hiệu quả thiết thực mà người hưởng lợi chính là người dân địa phương (đặc biệt là các em nhỏ) cũng như lắng nghe và phục vụ nhu cầu trực tiếp của cộng đồng đã góp phần tăng sự tin tưởng và đóng góp tự nguyện từ người dân trong khu vực. Neutinamu đã cho chúng ta một bài học về nguồn lực cộng đồng là không hề nhỏ (điều quan trọng là làm sao thu hút được nguồn lực đó?), và nếu như có tổ chức bài bản thì có thể tạo tác động lớn đối với sự phát triển, gắn kết của cả cộng đồng, như cách Neutinamu đã chuyển hoá một thị trấn với đầy những tệ nạn từ những năm 2000 bởi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á thành một không gian văn hoá, giáo dục và phát triển cho cư dân địa phương và cả lao động nước ngoài trong khu vực.


 Đến với câu chuyện thứ hai về sự thành công của kinh tế đoàn kết (solidarity economy) - mô hình hợp tác xã “tiêu dùng”. Được thành lập từ năm 1997, iCOOP bao gồm 6 thành viên là những hợp tác xã (HTX) nhỏ cùng kiến tạo nên liên đoàn. Đến nay, trong tổng số 4 liên hiệp HTX lớn nhất Hàn Quốc (iCOOP, Hansalim, Dure, Happy Coop), iCOOP là liên đoàn HTX có doanh thu hàng năm lớn nhất (6243 tỉ won) nhờ phục vụ hơn 332.444 hộ gia đình thành viên và 252 cửa hành trên khắp Hàn Quốc (2). Ngoài ra, với sự đóng góp từ các thành viên, iCOOP đã xây dựng được 3 khu công nghiệp ở Hàn Quốc. Ở các khu công nghiệp đó, ngoài sản xuất hàng hoá, sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày, thực phẩm cho các thành viên thì iCOOP còn xây dựng cả trung tâm nghiên cứu về ung thư, về thực phẩm lành tính, bệnh viện, sauna, phòng thiền, nghĩ dưỡng,… để phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của thành viên. Thông qua các khu công nghiệp, iCOOP đã góp phần làm sống dậy nền kinh tế nông thôn, tạo việc làm người dân địa phương.

Để làm được điều đó, iCOOP đã có rất nhiều sáng kiến trong quản trị và huy động tài chính từ chính các thành viên, trong đó phải kể đến phí thành viên hàng tháng (10.000 won - 180 ngàn VND) và phí gia nhập ban đầu 50.000 won (tầm 900 ngàn VND) để được hưởng ưu đãi giảm 20-30% so với giá niêm yết dành cho người không phải Hội viên (so với GDP bình quân đầu người gần 35.000 USD thì việc tốn 7.5 đô/tháng cho các ưu đãi sản phẩm cũng như dịch vụ chất lượng của iCOOP là một con số không đáng kể). Tuy nhiên, con số "không đáng kể" đó từ các hộ gia đình lại tạo nên những "tác động đáng kể" với HTX mà mình làm thành viên, với cộng đồng cũng như cả xã hội và tương lai của bản thân/gia đình trong việc chăm sóc sức khoẻ và tiêu dùng. Chưa kể, iCOOP còn có hệ thống chi trả trước (advance payment system) từ thành viên và quỹ bình ổn giá, phản ứng với thiên tai. iCOOP không chỉ tạo tác động tích cực đến thành viên là những người tiêu dùng mà còn ổn định và hỗ trợ tốt cho bên cung cấp, các nông hộ, các doanh nghiệp, HTX sản xuất, HTX nông nghiệp. Những đóng góp nhỏ, một cách đều đặn, từ nhiều người có thể tạo nên những tác động cực lớn. Nói cách khác, khi cộng đồng đến cùng nhau, thì mỗi nỗ lực nhỏ của từng người được cộng hưởng và nhân lên rất nhiều. Để làm được điều đó, iCOOP - với tư cách là một HTX tiêu dùng, không giống với các doanh nghiệp tư nhân tối ưu hoá lợi nhuận (cho cổ đông), HTX được làm chủ bởi các thành viên và đóng góp tài chính giữa các thành viên, có cơ hội làm việc một cách ổn định và chú trọng vào tầm nhìn, lợi ích dài hạn cho tất cả thành viên.


 Ở Jungto Society - cộng đồng của những người thực tập Phật giáo dấn thân được sáng lập bởi Thiền sư Pomnyun Sunim. Thông qua thực tập của mình, những hành giả ở Jungto Society mong muốn tìm kiếm sự tự do khỏi những đau khổ của bản thân đồng thời phục vụ tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Để làm được điều đó, ngoài các thực tập cá nhân hàng ngày, hành giả ở Jungto Society còn thực tập hiến tặng khoảng ít nhất 1 đô la mỗi ngày và tình nguyện mỗi khi có thời gian/điều kiện đến cho những nơi, những con người có ít điều kiện hơn mình cũng như tạo nên những điều tốt đẹp hơn cho xã hội. Nhờ đó Jungto Society có 4 tổ chức phi chính phủ hoạt động với 4 mục đích khác nhau tại Hàn Quốc và nhiều quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực: cứu trợ/nhân đạo/hỗ trợ người tị nạn, môi trường, nghiên cứu và thúc đẩy hoà bình ở bán đảo liên Triều. Tại Ấn Độ, thông qua JTS (Join Together Society), cộng đồng Jungto đã xây dựng và vận hành trường học cho hơn 700 học sinh tại Dongheswari - nơi trước đây chưa từng có trường và những đứa trẻ phải xin ăn thay vì đi học, cùng với đó là một bệnh viện và các dự án phát triển cho người dân địa phương. Tại Philippines, JTS xây dựng hơn 70 ngôi trường nhỏ. Trao hơn 200.000 bếp gas cho người tị nạn Rhohinga tại Bangladesh, xây nhà và cứu trợ lương thực cho hàng ngàn người trong đợt lũ lụt lịch sử ở Pakistan cùng với 100 căn nhà, 1000 giếng nước… (3) Những gì mà Jungto Society và JTS đạt được thật phi thường, đó là sức mạnh của sự thực tập, của Phật giáo dấn thân, của việc tình nguyện và của $1 mỗi ngày.

Jungto Society đã biến việc đóng góp không chỉ là góp tiền thông thường trở thành mối quan hệ với sự trao tặng đã trở thành một thực tập hàng ngày, ý nghĩa và thiêng liêng. Mỗi một đô la tiết kiệm được - dù rất nhỏ với người dân Hàn Quốc, mỗi một hành động tiết giảm tiêu thụ đã giúp đõ được một bữa ăn cho một ai đó, góp một phần của căn nhà hay giúp cho một em nhỏ được đến trường. JTS - tuy vậy, không phải là tổ chức viện trợ hay từ thiện, những cá nhân ở JTS cũng không phải là nhân viên nhân đạo chuyên nghiệp mà là những hành giả, những người thực tập - thông qua việc phụng sự xã hội. Nhờ vào những đóng góp từ thực tập của bản thân những hành giả/Phật tử một cách thường xuyên, nhất quán mà Jungto có nguồn tài chính ổn định và tự do để bảo vệ các nguyên tắc, giá trị và trung thành với thực hành của mình trong lúc thực hiện các dự án nhân đạo, phát triển và xây dựng hoà bình, xây dựng cộng đồng thực tập của mình mà không phải chịu sự chi phối của bất cứ bên nào.


Điều này hết sức có ý nghĩa trong bối cảnh gần như các cơ sở tôn giáo ở Hàn Quốc đều ít nhiều nhận sự hỗ trợ của chính phủ và/hoặc được tổ chức như một doanh nghiệp để có thể tồn tại. Mặc dù với Jungto thì việc đóng góp tài chính như một phần thực tập, nhưng dưới góp nhìn phát triển cộng đồng và thay đổi xã hội thì mô hình của Jungto rất đáng để học hỏi và áp dụng, nó không chỉ là đóng góp tài chính mà còn là hành vi anti-consumerism (phản kháng lại chủ nghĩa tiêu dùng), sống tiết kiệm, tối giản và vừa đủ (phù hợp với triết lý và thực hành của Phật giáo) - bản thân sự tiết kiệm đã là hành vi bảo vệ môi trường, tạo dựng hạnh phúc bên trong bền vững. Mỗi một đồng tiết kiệm được, mỗi phần ăn đơn giản hơn, mỗi chi tiêu không cần thiết được cắt giảm, và chuyển nguồn lực đó thành nguồn lực xã hội, nguồn lực cộng đồng, chúng ta đã góp phần không nhỏ vào công cuộc thay đổi xã hội, mang đến cơ hội, thực phẩm, giáo dục, quần áo cho người khác cũng như làm Trái Đất trở nên sạch và lành hơn.


Mô hình “membership economy/subscription-based” không phải là mới, Netflix và các kênh streaming là những điển hình của mô hình này. Tuy nhiên, trong các lĩnh vực xã hội - cộng đồng, nhất là tại Việt Nam thì dường như vẫn còn rất mới. Mô hình có vẻ giống nhau nhưng tinh thần, mục đích của các chương trình membership đối với các tổ chức xã hội thì khác xa - và đây cũng là thứ giữ giá trị cùng tính bền vững của những tổ chức này.

Để thúc đẩy việc trao đổi kinh nghiệm giữa những tổ chức trên với cộng đồng Việt Nam và giao lưu văn hoá Việt - Hàn, VCIL Community sẽ tổ chức chuyến đi học tập trải nghiệm vào mùa thu này tại Hàn Quốc với chủ đề VCIL Travel School 2023 - Hàn Quốc: Từ kỳ tích sông Hán đến những con đường thay thế .

 Trên đây là những chia sẻ ngắn về mô hình hoạt động và cách giải quyết bài toán tài chính, kinh nghiệm huy động sự tham gia và nguồn lực cộng đồng vào các dự án, tổ chức xã hội. Hy vọng chúng là những ý tưởng, kinh nghiệm và cảm hứng về giải pháp cho những thiếu thốn về tài chính, nguồn lực cho những sáng tạo trong lĩnh vực phát triển, xã hội theo hướng phát triển từ cấp độ cơ sở. Ở VCIL Community, chúng mình liên tục học hỏi và thử nghiệm với nhiều sáng kiến, mô hình khác nhau cho hoạt động của mình. Thỉnh thoảng chia sẻ lại những kinh nghiệm để mời mọi người cùng bàn bạc với nhau về giải pháp cho vấn đề phức tạp của xã hội.


Trích dẫn:

(1) Số liệu từ Seoul Innovation Park

(2) Báo cáo thường niên 2022 của iCOOP

(3) Thông tin được chia sẻ tại INEB Study Tour to Jungto Society 2023


---------------


Ngoài ra, nếu có câu hỏi hay thắc mắc về chương trình, bạn có thể liên hệ với chúng mình qua:

- Facebook: VCIL Community & VCIL Travel School

- Whatsapp/Phone: +84.768217586 (Vu Truong) hoặc +84.918580257 (Trinh Thai)

Bình luận


©2022 by VCIL Travel School

bottom of page